Tin tức

TỤC CƯỚI HỎI BA MIỀN

14/12/2009

Cưới hỏi là nghi thức không thể thiếu trong đời sống tinh thần của các dân tộc trên thế giới. Với người Việt, ở cả ba miền Bắc - Trung - Nam, bên cạnh nét “đại đồng”, tục cưới hỏi vẫn mang tính “tiểu dị” độc đáo.

Cưới hỏi là nghi thức không thể thiếu trong đời sống tinh thần của các dân tộc trên thế giới. Với người Việt, ở cả ba miền Bắc - Trung - Nam, bên cạnh nét “đại đồng”, tục cưới hỏi vẫn mang tính “tiểu dị” độc đáo.

Miền Bắc thanh lịch

Nghi thức cưới ở miền Bắc nghiêm ngặt hơn so với các vùng khác - dù qua thời gian có thay đổi ít nhiều. Ngày nay, người miền Bắc còn giữ được ba lễ chính:

Lễ dạm ngõ là thủ tục cần thiết để hai gia đình thưa chuyện với nhau. Tiếp đến là lễ ăn hỏi. Lễ ăn hỏi của người Hà Nội không thể thiếu đặc sản đất Hà thành như cốm hồng, bánh cốm, bánh su sê, mứt sen... Từ lễ hỏi đến lễ cưới thường cách nhau dưới 10 ngày. Ngày xưa, lễ rước dâu có rất nhiều thủ tục: đi đầu đám rước là những người có địa vị, ra đến đầu làng hoặc đầu phố có lễ chăng dây (lễ này đến đầu thế kỷ XX vẫn còn), đám rước đi qua phải đưa một ít tiền. Ăn uống, tiệc tùng diễn ra trước ngày cưới một ngày. Bây giờ, nhiều gia đình tổ chức ngay trong ngày cưới.

Từ lúc có sự giao thoa văn hóa với phương Tây, thiệp báo hỷ xuất hiện. Khi đưa thiệp mời cưới phải đưa kèm chè và hạt sen (lấy từ lễ ăn hỏi). Rượu sâm banh được mở báo hiệu lễ cưới bắt đầu. Rượu sâm banh với bánh sâm ba là hai thứ không thể thiếu trong lễ cưới của những người phong lưu.

Khi đón dâu, cô dâu chú rể phải làm lễ gia tiên, lễ này như một sự tưởng nhớ cội nguồn, tổ tiên. Sau lễ thành hôn là lễ lại mặt (hiện nay một số đám cưới đã bỏ qua). Lễ lại mặt thường tiến hành vào ngày thứ hai hoặc thứ tư sau lễ cưới nên còn gọi là lễ nhị hỷ hoặc tứ hỷ.

Miền Trung lễ giáo

Đám cưới ở miền Trung thường diễn ra tiết kiệm, giản đơn. Nhưng ở mỗi phần lại khá cầu kỳ, với quan niệm “trọng lễ nghi khi (khinh) tài vật”.

Người miền Trung xem đám hỏi là buổi gặp mặt hai gia đình để giới thiệu đôi bạn trẻ. Các lễ xin giờ, nghinh hôn, bái tơ hồng, rước dâu diễn ra ở nhà gái; đón dâu, trình báo gia tiên ở nhà trai. Người miền Trung không có tục thách cưới. Lễ vật tối thiểu chỉ gồm mâm trầu cau, rượu trà, nến tơ hồng, bánh phu thê. Đám cưới nào cũng có phù dâu, phù rể và hai đồng nam, đồng nữ rước đèn (hay cầm hoa) đi trước.

Đêm tân hôn, đôi vợ chồng trẻ phải làm lễ giao bôi hợp cẩn. Người Huế có tập tục để trong phòng hoa chúc một khay lễ với 12 miếng trầu, đĩa muối, gừng và rượu giao bôi. Ðôi bạn trẻ phải ăn hết 12 miếng trầu - tượng trưng cho 12 tháng hòa hợp trong năm, 12 năm tuần hoàn trong một giáp âm lịch. Muối, gừng tượng trưng nghĩa tình nồng thắm, “gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”.

Tuổi mạng rất được coi trọng ở miền Trung. Chủ hôn thường là vị cao niên trong dòng tộc, vợ con đầy đủ, không bệnh tật, tuổi không khắc kỵ với đôi tân hôn. Phù dâu phù rể là người chưa lập gia đình, tính tình vui vẻ nhanh nhẹn. Việc bài trí phòng tân hôn phải do một người phụ nữ lớn tuổi, phúc hậu sửa soạn. Lễ vật rước dâu, nhà trai nhờ một người cao tuổi, đủ vợ chồng con cái, gia đình hòa thuận kiểm tra. Người này cũng sẽ têm trầu cau, bày cặp nến hồng trên bàn thờ gia tiên nhà gái. Lễ xong, cặp nến hồng cũng phải được người này thổi tắt. Số người nhà trai đi rước dâu luôn là số chẵn. Trước khi đi và khi đón dâu về, nhà trai thường cử vài người đàn ông trẻ tuổi hoạt bát, đã có vợ con ra đứng đón sẵn để “lấy hên” cho đôi tân hôn.

Miền Nam chất phác

Hôn lễ chính cử hành tại gia đình. Vị trí buổi lễ là khu vực thờ tổ tiên. Trang trí trong nhà tùy theo gia cảnh, nhưng phải có đủ “hương đăng hoa quả”. Họ hàng nhà trai đến nhà gái có người làm mai đi đầu. Phẩm vật ngoài trái cây, bánh kẹo, phải có trầu cau, cặp nến to trùng với kích thước của đôi chân đèn trên bàn thờ. Ðại diện nhà trai kính cẩn mời đàng gái uống trà, rượu, ăn trầu và trò chuyện. Xong xuôi, người trưởng tộc của đàng gái tuyên bố: “Xin làm lễ lên đèn”.

Lên đèn là nghi lễ quan trọng và thiêng liêng nhất, bắt buộc phải có. Hai ngọn nến to, do nhà trai đem đến được đặt trên bàn thờ gia tiên. Trưởng tộc sẽ khui một trong số hai chai rượu do nhà trai đem đến. Ông đứng ngay chính giữa trước bàn thờ, cô dâu và chú rể đứng hai bên, im lặng. Trong lúc lên đèn, có sự tôn nghiêm kỳ lạ. Lửa biểu tượng cho sự sống, là niềm lạc quan. Lửa nối quá khứ, nối tổ tiên với hiện tại.

Nhất Quỳnh